Góc nhìn khác về BĐS công nghiệp

Nhà đầu tư và dòng vốn ngoại luôn giữ một  tầm quan trọng  nhất định trong phát triển kinh tế, nhưng cũng sẽ là thiếu công bằng nếu chỉ coi trọng “người ngoài” mà bỏ quên đi nguồn lực trong nước.

Góc nhìn khác về bất động sản công nghiệp

Hướng ngoại, đừng quên nội

Trong phát biểu  mới đây  trước Quốc hội, đại biểu Bùi Thanh Tùng (Đoàn Hải Phòng) cho rằng, nhiều địa phương đã trải thảm đỏ  cho các  tập đoàn đa quốc gia về đầu tư ở địa phương mình. Tuy nhiên,  với các  sự  ưu ái  đó sẽ có được  sự thiên lệch khi so sánh đối với doanh nghiệp trong nước,  đặc biệt  là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Theo đại biểu Tùng, trên thực tế, công việc  thẩm định,  tham khảo  giải quyết các thủ tục cho dự án đầu tư của doanh nghiệp từ quy hoạch, giải phóng mặt bằng, chấp thuận đầu tư, tính giá đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến các giấy phép về xây dựng công trình…, nhiều doanh nghiệp phải mất  bình quân  từ 3 - 4 năm, gây hụt hơi, nản chí doanh nghiệp.

“Thiết nghĩ,  chúng ta  đang dọn tổ đón “đại bàng” thì cũng nên rắc thóc cho chào mào, chim sẻ để  sự thật  có được sự công bằng và tạo  lòng tin  cho cộng đồng doanh nghiệp phát huy nội lực của doanh nghiệp trong nước, góp phần mau lẹ  hồi phục  kinh tế’, đại biểu Tùng nhấn mạnh.

Cùng chung quan điểm, khi chia sẻ với phóng viên Báo Đầu tư Bất động sản, đại diện một  chủ đầu tư  dự án khu công nghiệp tại Hưng Yên cũng cho biết, dù dự án của doanh nghiệp  đó đã  có quyết định phê duyệt của cấp cao nhất là Thủ tướng Chính phủ, nhưng lịch trình  thực hiện còn nhiều khó khăn.

“Tôi không dám nói là cán bộ năng lực kém, hay nhũng nhiễu gì, nhưng  thực tại  là rừng thủ tục còn quá nhiều, khó đẩy nhanh, gây mệt mỏi  cho cả  doanh nghiệp và cơ quan quản lý, trong lúc   cơ hội  mất đi. Nếu dự án được đưa vào vận hành sớm thì chúng tôi đỡ thiệt hại về vốn đầu tư, mặt khác có thể  thu tiền thuế, đóng góp cho ngân sách tỉnh được nhiều hơn”, vị này cho biết.

Không chỉ màu hồng

Mặc dù  nhưng vẫn  giữ sự tự tin, lạc quan với diễn biến thị trường, nhất là Sau thời điểm  Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) được Quốc hội bấm nút thông qua,  nhưng vẫn  có không ít  quan điểm   cẩn thận  trước làn sóng đầu tư mới có thể  đổ vào Việt Nam.

Theo ông Lê Trọng Hiếu, Giám đốc Bộ phận Tư vấn và Giao dịch - Dịch vụ  bất động sản  công nghiệp CBRE Việt Nam, khi  cơ hội  được mở ra thì cũng chứa đựng những rủi ro tiềm tàng. Việc chuyển dịch sản xuất vào Việt Nam một biện pháp  đột ngột có thể  đưa đến  việc tắc nghẽn do thị trường đang rất khan hiếm nguồn cung.

Các  nhà đầu tư  cũng sẽ không tưởng  đủ thời gian để  cung cấp  ra thị trường các sản phẩm phục vụ công nghiệp có chất lượng, do công tác này tốn khá nhiều thời gian,  đặc biệt  là về các thủ tục pháp lý. Thêm vào đó, việc thiếu nguồn nhân lực tạm thời và hệ thống  cơ sở hạ tầng  còn hạn chế sẽ là những rào cản của Việt Nam, ảnh hưởng đến triển vọng tăng tưởng của  thị trường địa ốc  công nghiệp trong ngắn hạn.

Đại diện CBRE cho rằng, đối mặt  với các   thách thức  trên,  nhà đầu tư  đã có sẵn quỹ đất sạch nên tăng tốc  trong công việc  xây dựng nhà xưởng để chuẩn bị  cho các   cơ hội   mở rộng  mới. Ngoài ra, các  nhà đầu tư  mới vào hoặc có yêu cầu  đến thị trường cần phải  chủ động ngay để nắm bắt những  cơ hội  phát triển hiếm có này.

Chính phủ Việt Nam cũng nên  tìm kiếm ra  những cách thức   phù hợp  để giải quyết những bất cập trên nhằm  chắc chắn  việc tối đa hóa  lợi thế  tranh đua  cho doanh nghiệp trong nước từ hiệp định tự do thương mại này.

Trong khi đó, theo  chuyên gia  kinh tế Nguyễn Trí Hiếu, cũng  cần có  sự chuẩn bị chu đáo để có thể  đón được làn sóng đầu tư. Ông Hiếu cho rằng, về chính quyền địa phương, có  một số  điểm có thể  đón được  nhà đầu tư  nước ngoài như Vân Đồn, Phú Quốc thì cần kế hoạch  bài bản, tổ chức thu xếp để các công xưởng đặt ở Việt Nam  phù hợp  hơn, tránh thực trạng  xây dựng lộn xộn. Cần quy hoạch chỗ nào là dân cư, chỗ nào là thương mại, chỗ nào là công nghiệp.

Các doanh nghiệp thì cần phải  căn cứ vào kế hoạch, định hướng mục tiêu của địa phương để  lôi kéo  các dự án phù hợp. Có doanh nghiệp chuyên về thương mại, công nghiệp hay nhà ở, các doanh nghiệp  cần có  sự  phối hợp cùng  chính quyền địa phương để làm tốt điều này.

Nhìn nhận về khả năng đổ bộ  của các  nhà đầu tư, ông Hiếu nhận định, một biện pháp  ồ ạt có lẽ là không, bởi các  nhà đầu tư  khi vào thị trường nào cũng cần tính toán cẩn thận. 2 hiệp định EVFTA và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU  (EVIPA) hấp dẫn với nhà đầu tư, nhưng ngoài Việt Nam, còn nhiều điểm đến khác như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines...

“Chúng ta cần kỳ vọng hợp lý, chứ  nhà đầu tư  vào ồ ạt mà  cơ sở hạ tầng  chưa  cung cấp  được, rồi còn thuế má, thủ tục hành chính phức tạp, thì  chúng ta  cũng  sẽ không  đón nhận  được làn sóng này”, ông Hiếu nhấn mạnh.

Theo ông Hiếu, một điểm cần để ý  nữa là việc dịch chuyển  của các  tập đoàn sẽ mang theo số lượng  chuyên gia  lớn,  cần có  chỗ làm việc, ăn ở, sinh hoạt. Chuyên gia nước ngoài có mức sống cao, có đòi hỏi nhiều về hạ tầng, giao thông, nhà ở, Việt Nam chỉ  lôi kéo  được  nhà đầu tư  nếu có hạ tầng cơ sở, hạ tầng xã hội tốt.

Làm gì để thắng?

Đưa ra lời khuyên  với các  doanh nghiệp, ông Vũ Công Trụ,  chuyên gia  về  bất động sản  khu công nghiệp và  thúc đẩy  đầu tư cho rằng,  với các   chủ đầu tư  đã có sản phẩm được quy hoạch, được chứng nhận đầu tư, có hạ tầng có thể  chia ra 3 cấp độ để phân loại,  từ đây  có kế hoạch, chuẩn bị chu đáo.

Cấp độ  1 là   chủ đầu tư  100% vốn nước ngoài, nhóm này có đặc điểm thường tiếp cận nhanh quý khách hàng  và có mạng lưới tốt, kỳ vọng chiếm  lợi thế  cao nhất khi đón sóng, tương thích nhanh  với các  hiệp định.

Cấp độ 2 là các  chủ đầu tư  có kinh nghiệm mãi mãi  đang chuẩn bị,  kết nối  mạng lưới khá tốt, nhưng có thể  phải chậm hơn các  chủ đầu tư  nhóm 1 khoảng 1 năm. Bởi khả năng kết nối, mạng lưới quốc tế trong hỗ trợ  khách hàng, nguồn lực đầu vào, đầu ra, hỗ trợ  cho khách chưa bằng được nhòm cấp độ 1.

Cấp độ 3 là các  chủ đầu tư  có hạ tầng nhưng chưa tồn tại  kinh nghiệm, thậm chí là tay ngang,  cần có  sự chuẩn bị. Riêng với nhóm này  cần có  sự hòa nhịp, thấu hiểu thị trường, xây dựng đội ngũ, hệ thống để có thể  sớm vận hành.

Ông Trụ cho rằng, với cả ba nhóm thuộc ba cấp độ nói trên, sự chuẩn bị nhanh hay chậm  phụ thuộc  nhiều vào nhìn nhận,  đánh giá  của ban lãnh đạo doanh nghiệp và  cam đoan  với quý khách hàng  trong dài hạn.

“Nhanh nhất thì 1 - 1,5 năm  chủ đầu tư  làm tốt có thể bắt nhịp được với thị trường, với guồng quay. Chính phủ và địa phương cần hỗ trợ  các  chủ đầu tư  hoàn thiện thủ tục pháp lý, địa lý kinh tế để  thúc đẩy  nhanh hơn và có thể  bắt kịp sự phát triển. Nếu làm tốt điều này, thì có thể  đẩy thời gian bắt nhịp thị trường chỉ từ  từ 6 - 8 tháng”, ông Trụ cho biết.

Trong khi đó, theo ông Sử Ngọc Khương, Giám đốc cấp cao Bộ phận Đầu tư Savills Việt Nam, ở thời điểm hiện tại, có ba nhóm  điều cần  quan tâm, bao gồm năng lực tài chính, năng lực quản trị và pháp lý. Nếu năng lực tài chính yếu, các  chủ đầu tư  có thể  tìm cách chia nhỏ hoặc tìm hướng hợp tác. Nếu năng lực quản trị còn hạn chế, các  chủ đầu tư  nên bắt đầu đạo tạo và bổ sung nguồn lực làm thế nào cho  hợp lý. Còn lại, vấn đề pháp lý sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát, nên  tầm quan trọng  của chính phủ là rất rộng  để giúp các doanh nghiệp  tham dự  vào thị trường.